Một số giải pháp phòng chống dịch bệnh trong nuôi trồng thuỷ sản
Thời gian qua, hoạt động nuôi trồng thuỷ sản đã gặp phải một số khó khăn trong công tác phòng chống dịch bệnh. Nguyên nhân là do những hạn chế, bất cập trong công tác quy hoạch, kế hoạch phòng chống dịch bệnh, công tác chỉ đạo tại địa phương, nguồn nhân lực, công tác kiểm dịch, thông tin về dịch bệnh… Để khắc phục những điều này, đòi hỏi phải có các giải pháp đồng bộ, thống nhất áp dụng từ Trung ương tới địa phương.
Trong năm 2013, rất nhiều địa phương thiếu quy hoạch đồng bộ nuôi trồng thủy sản. Quy mô sản xuất nhỏ lẻ vẫn chiếm đa số, ý thức phòng chống dịch bệnh còn hạn chế, chưa chú trọng đến công tác xử lý nguồn nước đầu vào và xử lý xả thải nên thủy sản chết sẽ theo dòng nước thải đổ trực tiếp ra môi trường gây ô nhiễm và làm tăng nguy cơ lây lan dịch bệnh. Bên cạnh đó, tình trạng nhiều người dân tự ý chuyển đổi diện tích nông nghiệp sang nuôi trồng thủy sản, nhưng đầu tư chưa thoả đáng về hạ tầng, kỹ thuật đã khiến khi dịch bệnh xảy ra, người nuôi không có khả năng phục hồi sản xuất.
Nhìn chung, kế hoạch phòng chống dịch bệnh chưa được xây dựng cụ thể, kinh phí cho công tác này rất hạn chế. Một số đơn vị chưa có phòng xét nghiệm, hoặc có nhưng chưa được công nhận đủ năng lực xét nghiệm các chỉ tiêu bệnh thủy sản, nên việc triển khai công tác giám sát, phòng chống dịch bệnh chưa được chủ động. Mặt khác, kế hoạch phòng chống dịch bệnh của một số tỉnh chỉ tập trung vào việc chống dịch, chưa chú trọng nhiều cho công tác giám sát, phòng dịch và cảnh báo dịch bệnh cho người dân; công tác chẩn đoán xét nghiệm bệnh thủy sản chưa được đầu tư đúng mức; kinh phí đào tạo tập huấn, thông tin tuyên truyền cũng rất hạn chế.
Tại một số tỉnh, khi dịch đã xảy ra ở phạm vi rộng (tại hầu hết các xã thuộc các huyện trọng điểm về nuôi tôm), các văn bản chỉ đạo chống dịch của tỉnh đã không thực sự phát huy hiệu quả, dịch bệnh vẫn xảy ra và kéo dài. Một trong những nguyên nhân là do địa phương khi ban hành quyết định thành lập đoàn công tác chống dịch, đã giao cho cán bộ xã - không phải cán bộ chuyên môn về thú y thủy sản - chịu trách nhiệm chẩn đoán và xác nhận diện tích dịch bệnh. Điều này dẫn tới, nhiều diện tích được báo cáo là có dịch bệnh thủy sản nhưng không được lấy mẫu xét nghiệm trong phòng thí nghiệm. Vì vậy, tên bệnhkhông được xác định chuẩn.
Công tác chỉ đạo phòng chống dịch của đội ngũ cán bộ làm công tác thú y cơ sở (cấp xã) ở các địa phương chưa được huy động hoặc chưa tập trung để triển khai các công việc quan trọng như chủ động giám sát, phát hiện dịch bệnh, triển khai các biện pháp phòng, chống khi có dịch xảy ra. Một phần do đội ngũ thú y xã chưa được trang bị đầy đủ các kiến thức chuyên môn nghiệp vụ về thú y thủy sản, do đó hoạt động thiếu hiệu quả. Ngoài ra, báo cáo và số liệu là một trong những tồn tại lớn nhất của các địa phương về phòng chống dịch bệnh thủy sản. Do đó, lãnh đạo các cấp rất khó nắm bắt được tình hình thực tế xảy ra: địa điểm có dịch bệnh, thời gian xuất hiện dịch, đối tượng thủy sản bị bệnh, diện tích nuôi và diện tích bị bệnh... Vì vậy, nhiều địa phương chưa đưa ra được biện pháp phòng chống bệnh kịp thời, hiệu quả.
Tại các tỉnh ĐBSCL, với đặc thù về địa hình sông nước phức tạp, diện tích nuôi lớn trong khi nguồn nhân lực còn hạn chế nên công tác giám sát, thống kê báo cáo dịch bệnh ở các tỉnh này đang gặp rất nhiều khó khăn, thông tin về dịch bệnh thiếu chính xác, đặc biệt là đối với hình thức nuôi tôm quảng canh và quảng canh cải tiến ở các tỉnh Bến Tre, Bạc Liêu và Cà Mau.
Đối với công tác chứng nhận kiểm dịch, hiện vẫn còn một số địa phương chỉ căn cứ kết quả kiểm tra cảm quan hoặc kết quả do người nuôi cung cấp để xem xét - cấp giấy chứng nhận kiểm dịch. Một số trại sản xuất giống/cơ sở kinh doanh giống thậm chí còn trình phiếu kiểm nghiệm của phòng thí nghiệm thuộc ngành y tế. Tôm hùm giống được khai thác từ biển hoặc thu mua từ các vùng trong tỉnh (Quảng Ngãi, Thừa Thiên - Huế, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa) đều không có giấy chứng nhận kiểm dịch. Những cơ sở nuôi tôm quảng canh cải tiến và quảng canh truyền thống do đã mua con giống từ các cơ sở sản xuất giống nhỏ lẻ, tôm bố mẹ không đảm bảo chất lượng hoặc nguồn gốc không rõ ràng nên tôm giống thả được 2-3 tuần thì phát bệnh, gây thiệt hại cho người nuôi.
Việc báo cáo dịch bệnh thủy sản chưa theo đúng quy định, phản ứng chống dịch còn chậm. Nguyên nhân là do địa phương chưa huy động lực lượng cán bộ làm công tác thú y hoặc tham gia hỗ trợ triển khai công tác thú y thủy sản. Bên cạnh đó là các hạn chế về trang thiết bị chẩn đoán xét nghiệm, hệ thống báo cáo và cảnh báo dịch bệnh thủy sản, kinh nghiệm giám sát, điều tra ổ dịch, xây dựng bản đồ dịch tễ và khống chế dịch bệnh; tận dụng tối đa sự hỗ trợ giúp đỡ của các tổ chức quốc tế cho công tác thú y thủy sản…
Các giải pháp đồng bộ, thống nhất áp dụng từ Trung ương đến địa phương:
Hướng dẫn các địa phương xây dựng hoặc rà soát điều chỉnh quy hoạch nuôi trồng thủy sản phù hợp với cơ cấu đối tượng nuôi và điều kiện của từng địa phương. Về phía địa phương, cần đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng; đảm bảo an toàn dịch bệnh và môi trường đối với vùng nuôi, nguồn nước nuôi thủy sản, xử lý nước xả thải, nhằm giảm thiểu thiệt hại cho người nuôi trồng thủy sản.
UBND các tỉnh chỉ đạo các cơ quan chuyên môn xây dựng, trình ban hành kế hoạch phòng chống dịch bệnh thủy sản (kế hoạch hàng năm và kế hoạch 5 năm). Đối với địa phương chưa có kế hoạch này, cần khẩn trương xây dựng và phê duyệt kế hoạch cho các nội dung chính sau: Giám sát chủ động nhằm phát hiện sớm các loại dịch bệnh thủy sản gây thiệt hại nhiều cho người nuôi; Quản lý chặt chẽ việc sản xuất và kinh doanh giống thủy sản; Tăng cường quản lý, giám sát môi trường vùng nuôi; Tăng cường năng lực chẩn đoán, xét nghiệm, xây dựng bản đồ dịch tễ; Đào tạo tập huấn và thông tin tuyên truyền; Kiểm tra, xử lý các trường hợp vi phạm.
Đối với việc giám sát dịch bệnh thủy sản (nhất là các dịch bệnh quan trọng trên tôm), phải phân công cán bộ kỹ thuật kiểm tra và giám sát diễn biến dịch bệnh theo từng vùng nuôi; hướng dẫn người nuôi phát hiện sớm và báo cáo đầy đủ cho các cơ quan chuyên môn và chính quyền địa phương để có biện pháp xử lý kịp thời; tập trung giám sát bệnh đốm trắng, hoại tử gan tụy trên tôm sú và tôm thẻ chân trắng, bệnh sữa, bệnh đỏ thân và hội chứng rụng càng gây thối cơ chân trên tôm hùm; Tập trung giám sát vùng nuôi, tăng cường quan trắc và cảnh báo môi trường, thông báo kịp thời cho người nuôi để có biện pháp phòng trừ dịch bệnh, hạn chế rủi ro.
Ngoài ra, các địa phương cũng cần tăng cường công tác quản lý kiểm dịch thủy sản giống, tổ chức lấy mẫu, giám sát định kỳ dịch bệnh tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh thủy sản giống, làm cơ sở cho việc kiểm dịch và cấp giấy chứng nhận kiểm dịch thủy sản giống; kiểm tra các loại thuốc thú y, hóa chất, chế phẩm sinh học dùng trong nuôi trồng thủy sản lưu thông trên địa bàn, kiên quyết xử lý triệt để các trường hợp vi phạm;
Đồng thời, tổ chức tập huấn cho người nuôi về những kiến thức liên quan đến các loại dịch bệnh thủy sản và các biện pháp phòng chống dịch bệnh: thường xuyên thông tin tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng về việc không giấu dịch, không vứt xác tôm chết, xả nước thải ra môi trường, không di chuyển lồng tôm bệnh sang các vùng nước khác; thực hiện công tác vệ sinh lồng, bè, lưới nuôi và các dụng cụ trước và sau khi sử dụng; sử dụng thuốc thú y, hoá chất và chế phẩm xử lý, cải tạo môi trường theo hướng dẫn của cán bộ chuyên môn.
Về phía Cục Thú y, sẽ công bố danh sách các cơ sở giống thủy sản đáp ứng những yêu cầu theo quy định hiện hành để các tổ chức, cá nhân quan tâm liên hệ trực tiếp. Song song với đó là hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và văn bản hướng dẫn về kiểm dịch thủy sản. Phối hợp với Tổng cục Thuỷ sản xây dựng và tổ chức triển khai Chương trình Quốc gia về Giám sát dịch bệnh thủy sản, tập trung vào một số bệnh quan trọng như đốm trắng, hoại tử gan tụy cấp, hoại tử dưới vỏ và cơ quan tạo máu (IHHNV), bệnh trên cá tra. Thống nhất ban hành quy trình lấy mẫu chẩn đoán xét nghiệm dịch bệnh thủy sản nói chung và các quy trình chẩn đoán một số bệnh trọng điểm (nhất là các bệnh phải công bố dịch, có ảnh hưởng đến xuất khẩu).
Bên cạnh đó, sẽ tích cực hợp tác với các tổ chức quốc tế về phòng chống dịch bệnh thủy sản. Định kỳ tổ chức họp tổng kết, phân tích và nhận định tình hình dịch bệnh; Đánh giá các biện pháp phòng trị dịch bệnh đã triển khai để rút kinh nghiệm và có những điều chỉnh phù hợp.